Giải pháp phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Công nghiệp nông thôn được hiểu là hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, các hợp tác xã, làng nghề và cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, tại các xã, thị trấn.
Ở Nghệ An, CNNT được quan tâm chỉ đạo phát triển từ năm 2001, khi có Nghị quyết 06-NQ/TU ngày 08/8/2001 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng làng nghề thời kỳ 2001-2010, từ đó đến nay Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, các cấp, các ngành đã thường xuyên quan tâm, chỉ đạo. Sau hơn 20 năm thực hiện, đến nay phát triển CNNT đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng nông thôn theo hướng công nghiệp hóa; khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế và thu hút nguồn lực các thành phần kinh tế ở nông thôn để phát triển đa dạng sản phẩm, hàng hóa; tăng thu ngân sách và phát triển hạ tầng nông thôn; tạo việc làm, nâng cao thu nhập và thu hút lao động nhàn rỗi, lao động ly hương, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn; đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Kết quả là bộ mặt nông thôn được đổi mới và hiệu quả xóa đói giảm nghèo cho người dân vùng nông thôn được cải thiện rõ rệt.
Các sản phẩm CNNT tỉnh Nghệ An chủ yếu tập trung vào các nhóm sản phẩm công nghiệp xây dựng, dệt may; sản xuất, chế biến nông - lâm - thủy sản; công nghiệp thực phẩm và đồ uống; sản phẩm chế biến gỗ và thủ công mỹ nghệ; nhóm sản phẩm thiết bị, máy móc và phụ tùng cơ khí... Tính đến hết năm 2023, toàn tỉnh có 223 sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp huyện, 96 sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh, 26 sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp khu vực và 16 sản phẩm công nghiệp nông thôn cấp quốc gia. Ngoài ra, tỉnh cũng đã xây dựng và tôn vinh 403 sản phẩm được xếp hạng đạt OCOP 3 sao trở lên, chiếm 4,6% số sản phẩm đạt hạng sao cả nước. Trong đó: 43 sản phẩm đạt 4 sao; 359 sản phẩm đạt 3 sao. Các loại hình doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực CNNT chủ yếu tồn tại 3 loại hình cơ sở CNNT chủ yếu, bao gồm: Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), Hợp tác xã sản xuất/tổ hợp tác và cơ sở sản xuất kinh hộ cá thể.
Bên cạnh những thuận lợi, CNNT ở Nghệ An cũng đang gặp không ít khó khăn như việc phát triển CNNT vẫn mang tính tự phát, phân tán, thiếu tính ổn định. Các địa bàn vùng sâu, vùng xa vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc quan tâm phát triển CNNT. Đóng góp vào ngân sách từ hoạt động CNNT còn hạn chế, thu nhập người lao động còn thấp. Một số sản phẩm làng nghề do sản xuất chủ yếu là thủ công, máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật sản xuất, chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm làng nghề, chưa quan tâm đến kiểu dáng, bao bì đóng gói nên sức cạnh tranh trên thị trường còn thấp, giá thành cao; một số nghề có nguy mất nghề...
Để phát triển CNNT, Nghệ AN cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó tập vào vào đẩy mạnh và ứng dụng triệt để công nghệ thông tin, chuyển đổi số cho doanh nghiệp; xây dựng cơ sở dữ liệu doanh nghiệp trên nền tảng hạ tầng số, dữ liệu số, thông tin số và số hóa doanh nghiệp. Trong quy hoạch hạ tầng phát triển CNN, cụm làng nghề, phát triển CNNT thân thiện với môi trường để bố trí nguồn lực đầu tư hạ tầng đồng bộ tạo mặt bằng thu hút CNNT đầu tư phát triển; xây dựng cơ chế đặc thù về thuê đất, thuế...; quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh của các địa phương.
Tiếp tục hỗ trợ các chương trình, đề án khuyến công, công nghiệp hỗ trợ, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và các chương trình xúc tiến thương mại, ocop có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng chuỗi giá trị liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm về ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, máy móc, thiết bị vào sản xuất, cải tiến năng suất chất lượng; xây dựng mô hình trình diễn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, máy móc, thiết bị vào sản xuất và chuyển giao công nghệ; hỗ trợ các cơ sở sản xuất áp dụng các tiêu chuẩn vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, xây dựng thương hiệu, khả năng cạnh tranh sản phẩm phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Tổ chức thường niên các hoạt động tổ chức bình chọn sản phẩm công nghiệp các cấp để tôn vinh giá trị sản phẩm CNNT, tạo điều kiện cho các cơ sở tiếp cận rộng rãi người tiêu dùng theo chủ trương “người Việt dùng hàng Việt”. Tập trung mạnh mẽ hỗ trợ cho các DN CNNT nâng cao năng lực về trình độ quản lý doanh nghiệp, trình độ tiếp cận và xây dựng thị trường; xây dựng thương hiệu sản phẩm./.